Về việc này, có lẽ nhiều người đã hiểu sai về khoản tiền gọi là “Participant Bonus” hoặc cũng có nơi dùng từ “Signature Bonus”. Nếu hiểu theo nghĩa đơn giản, chữ Bonus nghĩa là tiền thưởng(“tiền hoa hồng”)thì không đúng với bản chất của từ ngữ. Và nếu như mọi người chịu khó vào tra Google với dòng chữ “hoa hồng chữ ký” hoặc “phí tham gia hợp đồng” thì sẽ cho ra rất nhiều kết quả và rất nhiều tờ báo của ta đã có những bài phân tích, giải thích về từ này.
Thực chất, khoản tiền này là khoản tiền mà nhà thầu phải trả cho nước chủ nhà khi ký hợp đồng dầu khí. Có thể giải thích một cách nôm na rằng, khoản tiền này giống như tiền ta đi mua hồ sơ thầu, giá trị của khoản tiền này nhiều hay ít tùy thuộc vào giá trị tổng thể của gói hợp đồng. Có nghĩa là khi công ty dầu khí nước chủ nhà giao tài liệu cho ta thì ta phải trả tiền, khoản tiền này cũng như một loại tiền đặt cọc để buộc tham gia dự án. Đây là một thông lệ bình thường ở quốc tế.
Các công ty nước ngoài vào Việt Nam khai thác dầu cũng phải trả khoản tiền này. Ví dụ, BHP (Anh) đã phải trả quyền khai thác ở mỏ Đại Hùng 90 triệu USD, hoặc khi chúng ta liên doanh với phía Nga khai thác dầu ở mỏ Nhenhetxky thì cũng phải trả phí tham gia hợp đồng gần 100 triệu USD.
Do cách hiểu và cách dịch có khác nhau nên mọi người dễ nghĩ đây là tiền “lại quả”. Việc thanh toán khoản phí này cũng theo luật dầu khí của từng nước mà không thể làm khác được. Trong dự án Junin 2, khoản tiền phí tham gia dự án này là 584 triệu đô và phải chuyển ngay 300 triệu đô theo quy định của Venezuela. Không thể nào có chuyện chúng ta chuyển tiền cho Venezuela rồi họ lại cắt xén, chia chác, lại quả với nhà đầu tư Việt Nam.
Còn ở Venezuela, Nga cũng phải chi cho PDVSA 1 tỷ USD tiền phí tham gia hợp đồng. Trung Quốc cũng đã chi 1 tỷ USD cho cái gọi là “hoa hồng chữ ký”…
Sự thật về chuyện “tiền hoa hồng” chỉ là như vậy! Những ai muốn hiểu về những khoản tiền thưởng này xin chịu khó tra cứu sẽ thấy ngay.